CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ PHÂN HỌ ONG CỰ PIMPLINAE
Pimplinae là một trong những phân họ Ong cự được nghiên cứu đầy đủ nhất, cả về mặt phân loại học (Narayanan & Lal, 1953; Townes & Townes, 1960; Baltazar, 1961; Gupta, 1961, 1962; Momoi, 1966, 1970; Aubert, 1969; Gupta & Tikar, 1969, 1976; Townes, 1969; Townes & Chiu, 1970; Constantineanu & Pisica, 1970; Porter, 1979; Gauld, 1984, 1991; Kusigemati, 1984; Kasparyan, 1981, 1989, 1990; Fitton et al., 1988; Kolarov, 1997; Gauld et al., 2002; Sääksjärvi et al., 2003, 2004; Gauld & Dubois, 2006; Kasparyan & Khalaim, 2007; Palacio et al., 2007; Matsumoto & Takasuka, 2010; Zwakhals, 2010; Pham, 2013; Matsumoto, 2016) lẫn khía cạnh sinh học (Arthur, 1966; Kishi, 1970; Jussila & Käpylä, 1975; Carton, 1979; Bruzzese, 1982; Führer & Willers, 1986; Brooks & Wahl, 1987; Ueno, 1999; Bin et al., 1999; Eberhard, 2000; Sato & Takasu, 2000; Matsumoto & Konishi, 2007). Theo Gauld et al. (2002), các loài ong cự thuộc phân họ Pimplinae ngày càng được sử dụng như những sinh vật chỉ thị cho các nghiên cứu về đa dạng sinh học (Gaston & Gauld, 1993; Bartlett et al., 1999) và được sử dụng như là những sinh vật thí nghiệm cho các nghiên cứu về chiến lược phân bổ giới tính (Ueno, 1997; 1998), định vị vật chủ (Henaut & Guerdoux, 1982; Wäckers et al., 1999; Broad & Quicke, 2000) và chấp nhận vật chủ (Iizuka & Takasu, 1998).