Chương II. SƠ LƯỢC VỀ LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU SÁN LÁ Ở ĐỘNG VẬT VIỆT NAM
Những nghiên cứu về khu hệ giun sán nói chung ở Việt Nam trước kia dưới thời kỳ Pháp thuộc do một số nhà bác học nổi tiếng thế giới tiến hành nhưng rất lẻ tẻ, mang tính chất ngẫu nhiên; chủ yếu là do các bác sĩ thú y thu thập mẫu vật ở lò mổ của các thành phố lớn.
Những sán lá đầu tiên được tìm thấy ở động vật nhà ở Việt Nam theo ý kiến của A. Railliet (1924) là do Bourger (1886) và Cattoin (1888). Cả hai tác giả ngẫu nhiên tìm thấy hai loài sán lá Fasciola gigantica và Gastrothylax crumenifer ở gia súc Bắc Bộ. Sau đó Evans và Rennie (1908) tìm thấy F. gigantica ở gia súc Trung bộ.
Năm 1892 A. Giard và A. Billet đã xuất bản công trình “Về một vài loài sán lá ký sinh ở gia súc Bắc Bộ”. Các tác giả đã tìm thấy ở trâu và bò ở tỉnh Cao Bằng, các loài sán lá Fasciola hepatica và hai loài mới: Homalogaster poirieri (sau này được xếp là tên đồng vật synonym của H. paloniae Poirier, 1882) và Distoma coelomaticum, sau này được xếp vào giống Eurytrema. Cũng các tác giả này (1897) tìm thấy loài Dicrocoelium panceaticum (Eurytrema panceaticum) ở tuyến tụy của gia súc. Loài này phân bố rộng ở Bắc Bộ, Nam Bộ, Lào và Campuchia.