Phát triển cây trồng chuyển gen ở Việt Nam
Lê Trần Bình
Các kỹ thuật tạo giống truyền thống như lai tạo và chọn lọc nhân
tạo đã được con người sử dụng hàng ngàn năm qua để tạo ra các
cây trồng có đặc tính nông học thích hợp và riêng biệt. Tuy nhiên,
những kỹ thuật này đòi hỏi nhiều thời gian và có thể phải trải qua
nhiều thế hệ mới có được những tính trạng mong muốn và loại bỏ
những tính trạng không mong muốn. Công nghệ sinh học (CNSH)
sử dụng kỹ thuật di truyền để biến đổi cây trồng bằng cách đưa
trực tiếp những gen có giá trị vào bộ gen của cây nhận (kể cả gen
của các loài vốn không có quan hệ họ hàng) và nhanh chóng tạo ra
cây trồng biến đổi gen (GMC) mang những đặc tính mong muốn.
Hiện nay, CNSH hiện đại và các cây trồng biến đổi gen đang được
ứng dụng rộng rãi và đã có những đóng góp đáng kể. Theo thông
báo tóm tắt của tổ chức Tổ chức Dịch vụ Quốc tế ứng dụng Công
nghệ sinh học vào Nông nghiệp (International Service for the
Acquisition of the AgriBiotech Applications, ISAAA) chỉ mới
trong thời gian chưa đầy 10 năm, bắt đầu từ 1995 với 0,5 triệu ha
cây trồng chuyển gen đầu tiên được gieo trồng, đến năm 2003 đã
có đến trên 67 triệu ha và cuối năm 2005 có tới gần 100 triệu ha
cây chuyển gen được trồng trên qui mô toàn cầu. Riêng trong giai
đoạn 1986 -1997, trên toàn cầu có tới 25000 thử nghiệm trên đồng
ruộng đối với các cây trồng biến đổi di truyền. Trong đó, gần 3/4
các cuộc thử nghiệm được tiến hành tại Mỹ, tiếp đến là Canada,
châu Âu, châu Mỹ la tinh và châu Á. Các thử nghiệm này tập trung
vào 10 loại tính trạng trên đối tượng là 60 loại cây trồng. Đến nay
phần lớn các quốc gia ở Đông Nam Á cũng đang nhập cuộc.